Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) trong thú y là gì? Hiểu một cách đơn giản, đó là quá trình đưa vắc-xin – chế phẩm chứa các tác nhân gây bệnh đã được làm yếu đi, bất hoạt hoặc chỉ là một phần cấu trúc của chúng – vào cơ thể vật nuôi. Mục đích không phải để gây bệnh, mà là để “dạy” cho hệ miễn dịch cách nhận diện và chống lại mầm bệnh đó. Giống như một buổi diễn tập phòng thủ, vắc-xin kích thích cơ thể sản sinh ra các kháng thể đặc hiệu và hình thành “trí nhớ miễn dịch”. Nhờ đó, khi vật nuôi không may tiếp xúc với mầm bệnh thực sự trong tương lai, hệ miễn dịch đã được chuẩn bị sẵn sàng sẽ phản ứng nhanh chóng và mạnh mẽ, tiêu diệt kẻ xâm nhập trước khi chúng kịp gây ra những tổn thương nghiêm trọng.
Giới thiệu: Định nghĩa và Tầm quan trọng của Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) trong Thú y
Trong lĩnh vực thú y, Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) là một quy trình quan trọng nhằm bảo vệ sức khỏe động vật bằng cách tăng cường hệ thống miễn dịch của chúng để chống lại các tác nhân gây bệnh cụ thể . Về cơ bản, Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) giúp hệ thống miễn dịch của vật nuôi học cách nhận biết và chống lại các tác nhân gây bệnh trước khi chúng có thể gây ra bệnh . Điều này được thực hiện bằng cách kích thích sản xuất kháng thể, là các protein xác định và tiêu diệt các tác nhân gây bệnh này . Tổ chức Thú y Thế giới (WOAH) định nghĩa Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) là biện pháp nhằm ngăn ngừa và kiểm soát sự xuất hiện của bệnh, đồng thời giảm sự lây truyền của tác nhân gây bệnh. Lý tưởng nhất, vắc-xin nên tạo ra khả năng miễn dịch ngăn ngừa nhiễm trùng. Tuy nhiên, một số vắc-xin có thể chỉ ngăn ngừa các dấu hiệu lâm sàng hoặc giảm sự nhân lên và thải mầm bệnh .
Các chương trình Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) có thể bao gồm Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) có hệ thống (thường xuyên) và Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) khẩn cấp (đáp ứng với dịch bệnh) . Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) có hệ thống ở các quốc gia có dịch bệnh nhằm giảm tỷ lệ mắc, tỷ lệ hiện mắc hoặc tác động của bệnh với mục tiêu phòng ngừa, kiểm soát và có thể tiêu diệt. Ở các quốc gia hoặc khu vực không có dịch bệnh, mục tiêu là ngăn chặn sự xâm nhập của bệnh từ các quốc gia hoặc khu vực lân cận có dịch bệnh hoặc hạn chế tác động trong trường hợp bệnh xâm nhập. Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) khẩn cấp là một biện pháp bổ trợ cho các biện pháp an toàn sinh học và kiểm soát dịch bệnh thiết yếu khác, có thể được áp dụng để kiểm soát các đợt bùng phát . Các chiến lược Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) khác nhau có thể được áp dụng đơn lẻ hoặc kết hợp, tùy thuộc vào đặc điểm dịch tễ học và địa lý của bệnh, bao gồm Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) vùng đệm, Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) toàn đàn, Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) bao vây và Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) có mục tiêu . Sự khác biệt về hiệu quả của vắc-xin, từ ngăn ngừa hoàn toàn nhiễm trùng đến chỉ giảm nhẹ các triệu chứng, cho thấy sự phức tạp trong việc lựa chọn và sử dụng vắc-xin phù hợp. Hơn nữa, các phương pháp tiếp cận chiến lược như Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) vùng đệm và Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) toàn đàn cho thấy tầm quan trọng của việc xem xét các yếu tố dịch tễ học trong các nỗ lực kiểm soát dịch bệnh ở động vật.
Tầm quan trọng của việc Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) đối với sức khỏe và phúc lợi động vật là vô cùng lớn. Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) bảo vệ vật nuôi khỏi các bệnh rất dễ lây lan và/hoặc gây tử vong, từ đó cải thiện chất lượng cuộc sống tổng thể của chúng . Các chuyên gia đồng ý rằng việc sử dụng rộng rãi vắc-xin trong thế kỷ qua đã ngăn chặn được hàng triệu ca tử vong và bệnh tật ở động vật . Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) có thể giúp tránh các phương pháp điều trị tốn kém cho các bệnh có thể phòng ngừa được và ngăn chặn các bệnh có thể lây truyền giữa động vật với nhau và từ động vật sang người (bệnh lây truyền từ động vật sang người) . Vật nuôi chưa được Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) có nguy cơ mắc các bệnh đe dọa tính mạng từ động vật hoang dã, chẳng hạn như bệnh dại và bệnh Carre . Nhiều cơ sở nội trú, chăm sóc ban ngày và huấn luyện vật nuôi uy tín yêu cầu phải Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) một số bệnh nhất định để bảo vệ tất cả các động vật tham gia . Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) thường rất hiệu quả trong việc ngăn ngừa hoặc giảm mức độ nghiêm trọng của bệnh trong tương lai, đặc biệt khi vắc-xin được tiêm theo khuyến cáo và đúng thời điểm . Việc tiêm nhắc lại vắc-xin là rất quan trọng để đảm bảo khả năng miễn dịch được duy trì mạnh mẽ và hiệu quả theo thời gian . Hơn nữa, chi phí Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) thường thấp hơn nhiều so với chi phí điều trị bệnh . Vắc-xin được coi là một trong những thành tựu y tế và y tế công cộng quan trọng nhất, giúp giảm tỷ lệ mắc bệnh và tử vong hơn bất kỳ biện pháp can thiệp nào khác trong y học người và thú y . Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) không chỉ bảo vệ sức khỏe của từng con vật mà còn cải thiện phúc lợi động vật trong cộng đồng (ví dụ: các trại cứu hộ) . Việc nhấn mạnh vào hiệu quả chi phí và những thành công tương tự trong y tế công cộng làm nổi bật lợi ích đáng kể của việc Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) thú y. Việc phân biệt giữa vắc-xin “cơ bản” và “không cơ bản” cho thấy cần có một phương pháp tiếp cận phù hợp, dựa trên các yếu tố rủi ro và lối sống của từng con vật.
Cơ chế Hoạt động của Vắc-xin trên Động vật
Vắc-xin hoạt động bằng cách kích thích hệ thống miễn dịch của động vật để chống lại các tác nhân gây bệnh. Vắc-xin chứa các phiên bản đã làm suy yếu hoặc bất hoạt của vi rút và/hoặc vi khuẩn (kháng nguyên) . Hệ thống miễn dịch của vật nuôi phản ứng với các kháng nguyên này và tạo ra các kháng thể . Vắc-xin giúp hệ thống miễn dịch của vật nuôi học cách nhận biết và chống lại các tác nhân gây bệnh cụ thể . Chúng mô phỏng một nhiễm trùng thực sự để hệ thống miễn dịch có thể bảo vệ cơ thể tốt hơn trong tương lai . Các liều sau (tiêm nhắc lại) tiếp tục kích thích hệ thống miễn dịch sản xuất các kháng thể quan trọng cần thiết để bảo vệ vật nuôi khỏi bệnh . Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) phơi nhiễm vật nuôi với các bộ phận của mầm bệnh, thách thức hệ thống miễn dịch phản ứng với khả năng xâm nhập của mầm bệnh bằng cách tạo ra các tế bào nhớ cho các kháng nguyên thuộc về mầm bệnh cụ thể đó . Mục tiêu là kích thích hệ thống miễn dịch thông qua việc tiếp xúc lặp đi lặp lại với kháng nguyên để các tế bào nhớ và các tế bào miễn dịch khác có mặt trong cơ thể ở mức độ bảo vệ cao nếu tiếp xúc với mầm bệnh thực tế xảy ra . Khái niệm về “tế bào nhớ” là trung tâm của sự bảo vệ lâu dài mà vắc-xin mang lại, cho phép phản ứng nhanh hơn và mạnh mẽ hơn khi tiếp xúc với mầm bệnh sau này.
Khả năng miễn dịch thu được thông qua Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) liên quan đến vai trò phối hợp của kháng nguyên, kháng thể và tế bào nhớ. Kháng nguyên là các chất kích thích hệ thống miễn dịch, có trong vắc-xin dưới dạng mầm bệnh đã làm suy yếu hoặc tiêu diệt hoặc các bộ phận của chúng . Kháng thể là các phân tử protein do tế bào lympho B sản xuất để đáp ứng với kháng nguyên, lưu thông trong máu để nhận biết và trung hòa các chất lạ như vi khuẩn và vi rút . Mỗi kháng thể thường đặc hiệu cho một kháng nguyên . Tế bào nhớ là các tế bào đặc hiệu từ hệ thống miễn dịch (tế bào lympho B và T) có khả năng ghi nhớ và nhận biết mầm bệnh hoặc kháng nguyên của chúng sau khi Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) hoặc nhiễm trùng tự nhiên . Chúng cho phép phản ứng miễn dịch nhanh hơn và hiệu quả hơn khi tái phơi nhiễm (phản ứng tăng cường) . Tương tác giữa các tế bào trình diện kháng nguyên (APC), tế bào T và tế bào B tạo thành một chuỗi phản ứng phức tạp dẫn đến sản xuất kháng thể và hình thành trí nhớ miễn dịch.
Vắc-xin tạo ra các loại miễn dịch khác nhau, chủ yếu là miễn dịch dịch thể và miễn dịch qua trung gian tế bào. Miễn dịch dịch thể chủ yếu liên quan đến việc sản xuất kháng thể bởi tế bào lympho B, giúp trung hòa các mầm bệnh ngoại bào (vi khuẩn, ký sinh trùng và vi rút) . Miễn dịch qua trung gian tế bào liên quan đến tế bào lympho T (đặc biệt là tế bào T hiệu ứng) phá hủy các tế bào bị nhiễm bệnh và tế bào T điều hòa kiểm soát cả phản ứng dịch thể và tế bào . Tế bào T trợ giúp loại 1 (TH1) đặc biệt quan trọng đối với các mầm bệnh nội bào . Vắc-xin sống giảm độc lực thường tạo ra cả miễn dịch tế bào và miễn dịch dịch thể , trong khi vắc-xin bất hoạt thường chủ yếu kích thích phản ứng kháng thể (miễn dịch dịch thể) . Loại vắc-xin có thể ảnh hưởng đến sự cân bằng giữa miễn dịch dịch thể và miễn dịch qua trung gian tế bào, điều này có ý nghĩa đối với hiệu quả chống lại các loại mầm bệnh khác nhau (ví dụ: vi khuẩn ngoại bào so với vi rút nội bào).
Các loại Vắc-xin Phổ biến được Sử dụng trong Thú y
Có nhiều loại vắc-xin khác nhau được sử dụng trong thú y, mỗi loại có cơ chế hoạt động và ứng dụng riêng.
Vắc-xin bất hoạt (đã giết chết):
Vắc-xin bất hoạt (đã giết chết): Loại vắc-xin này chứa các vi sinh vật (vi rút hoặc vi khuẩn) đã bị tiêu diệt hoặc bất hoạt bằng nhiệt, hóa chất hoặc bức xạ, khiến chúng vô hại nhưng vẫn có khả năng kích thích phản ứng miễn dịch . Chúng thường cần chất bổ trợ để tăng cường phản ứng miễn dịch và có thể cần nhiều liều (tiêm nhắc lại) để duy trì khả năng miễn dịch liên tục . Ví dụ bao gồm vắc-xin dại (cho chó, mèo, ngựa) , vắc-xin cúm chó , vắc-xin leptospirosis (cho chó) , vắc-xin giảm bạch cầu mèo (bất hoạt) , vắc-xin viêm gan A (cho người) , hầu hết các vắc-xin cúm (cho người) , IPV (vắc-xin bại liệt) , một số vắc-xin bệnh Lyme (cho chó) , vắc-xin vi khuẩn toàn tế bào , một số vắc-xin leptospirosis cho chó , vắc-xin Bordetella bronchiseptica tiêm , vắc-xin vi rút bệnh bạch cầu mèo (FeLV) (bất hoạt) , vắc-xin viêm não ngựa (miền Đông, miền Tây) (bất hoạt) , vắc-xin bệnh lở mồm long móng (bất hoạt) , vắc-xin viêm não Nhật Bản (bất hoạt) , vắc-xin bệnh xuất huyết do virus gây ra (bất hoạt) , vắc-xin tiêu chảy do virus ở bò (BVDV) (bất hoạt) , vắc-xin đậu mùa cừu và đậu mùa dê (bất hoạt) , vắc-xin cúm ngựa (bất hoạt) , vắc-xin vi rút viêm động mạch ngựa (bất hoạt) , vắc-xin viêm não ngựa Venezuela (bất hoạt) , vắc-xin viêm phế quản truyền nhiễm ở gia cầm (bất hoạt) , vắc-xin viêm gan do vi rút ở vịt (bất hoạt) , vắc-xin bệnh Newcastle (bất hoạt) , vắc-xin uốn ván (giải độc tố, thường kết hợp) , vắc-xin clostridial (bacterin hoặc giải độc tố) . Ưu điểm là sản phẩm ổn định, không gây bệnh cho động vật và thường an toàn cho động vật suy giảm miễn dịch . Nhược điểm là khả năng tạo miễn dịch kém hơn và thời gian miễn dịch ngắn hơn so với vắc-xin giảm độc lực , thường cần chất bổ trợ , có thể cần tiêm nhắc lại thường xuyên hơn và có thể liên quan đến các phản ứng bất lợi nhiều hơn . Chúng có thể không bảo vệ chống lại nhiễm trùng mà chỉ bảo vệ chống lại bệnh tật .
Vắc-xin sống giảm độc lực:
Vắc-xin sống giảm độc lực: Loại vắc-xin này chứa các vi sinh vật sống (vi rút hoặc vi khuẩn) đã bị làm suy yếu hoặc thay đổi để chúng không còn gây hại nhưng vẫn có khả năng kích thích miễn dịch bảo vệ . Chúng có thể nhân lên trong vật chủ, dẫn đến phản ứng miễn dịch mạnh mẽ và thường kéo dài . Ví dụ bao gồm vắc-xin vi rút bệnh Carre ở chó , vắc-xin vi rút parvovirus ở chó , vắc-xin adenovirus loại 2 ở chó (viêm gan truyền nhiễm ở chó) , vắc-xin vi rút parainfluenza ở chó , vắc-xin vi rút giảm bạch cầu ở mèo (sống giảm độc lực) , vắc-xin vi rút herpes mèo loại 1 , vắc-xin vi rút calicivirus ở mèo , vắc-xin vi rút gây bệnh lưỡi xanh , vắc-xin vi rút gây bệnh da sần , vắc-xin vi rút gây bệnh lở mồm long móng , vắc-xin vi rút gây bệnh giả dại , vắc-xin vi rút gây bệnh dịch tả trâu bò , vắc-xin vi rút gây bệnh sốt thung lũng Rift , vắc-xin vi rút gây bệnh viêm miệng mụn nước , vắc-xin vi rút gây bệnh sốt Tây sông Nile (sống giảm độc lực) , vắc-xin vi rút gây bệnh xuất huyết do virus gây ra (sống giảm độc lực) , vắc-xin vi rút gây bệnh tiêu chảy do virus ở bò (sống giảm độc lực) , vắc-xin vi rút gây bệnh viêm mũi khí quản truyền nhiễm ở bò/viêm âm hộ mụn mủ truyền nhiễm , vắc-xin vi rút gây bệnh dịch tả cừu , vắc-xin vi rút gây bệnh đậu mùa cừu và đậu mùa dê (sống giảm độc lực) , vắc-xin vi rút gây bệnh viêm động mạch ngựa (sống giảm độc lực) , vắc-xin vi rút gây bệnh viêm não ngựa Venezuela (sống giảm độc lực) , vắc-xin vi rút gây bệnh dịch tả ngựa châu Phi (sống giảm độc lực) , vắc-xin vi rút gây bệnh dịch tả lợn cổ điển , vắc-xin vi rút gây bệnh hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp ở lợn , vắc-xin vi rút gây bệnh viêm phế quản truyền nhiễm ở gia cầm (sống giảm độc lực) , vắc-xin vi rút gây bệnh viêm thanh khí quản truyền nhiễm ở gia cầm , vắc-xin vi rút gây bệnh viêm gan do vi rút ở vịt (sống giảm độc lực) , vắc-xin vi rút gây bệnh viêm ruột do vi rút ở vịt (sống giảm độc lực) , vắc-xin vi rút gây bệnh đậu mùa ở gia cầm (sống giảm độc lực) , vắc-xin vi rút gây bệnh Gumboro (bệnh viêm túi Fabricius) (sống giảm độc lực) , vắc-xin vi rút gây bệnh Newcastle (sống giảm độc lực) , vắc-xin Chlamydia felis (sống giảm độc lực) , vắc-xin Bordetella bronchiseptica (sống giảm độc lực) (tiêm qua đường mũi) , vắc-xin Brucella chủng 19 (ở bò) , vắc-xin than huyết chủng Sterne , vắc-xin vi rút sống giảm độc lực chứa Mannheimia haemolytica và Pasteurella multocida phụ thuộc vào streptomycin . Ưu điểm là thường tạo ra phản ứng miễn dịch bền hơn , tạo ra cả miễn dịch tế bào và miễn dịch dịch thể , có khả năng ngăn ngừa cả nhiễm trùng và bệnh tật cao hơn , thường chỉ cần một liều để bảo vệ khi không có kháng thể mẹ và có thể cung cấp khả năng miễn dịch nhanh chóng . Việc thải vi sinh vật vắc-xin có thể miễn dịch cho các động vật khác trong quần thể . Nhược điểm là có thể không an toàn cho động vật suy giảm miễn dịch , có khả năng gây bệnh do vi sinh vật vắc-xin, đặc biệt ở động vật suy giảm miễn dịch , dễ dẫn đến kết quả xét nghiệm dương tính giả hơn và độc lực của vi sinh vật sống phải được giảm thiểu cẩn thận để tránh sự phục hồi độc lực .
Vắc-xin tiểu đơn vị, tái tổ hợp, polysaccharide và liên hợp:
Vắc-xin tiểu đơn vị, tái tổ hợp, polysaccharide và liên hợp: Loại vắc-xin này sử dụng các thành phần cụ thể của mầm bệnh (ví dụ: protein, polysaccharide) hoặc kháng nguyên được sản xuất thông qua kỹ thuật di truyền để kích hoạt phản ứng miễn dịch mà không cần sử dụng toàn bộ mầm bệnh . Ví dụ bao gồm vắc-xin tiểu đơn vị viêm gan B (người) , vắc-xin ho gà vô bào (người) , vắc-xin cúm tái tổ hợp (người) , vắc-xin tiểu đơn vị chống độc tố ruột E. coli , vắc-xin protein OspA cho bệnh Lyme (chó) , vắc-xin tiểu đơn vị tái tổ hợp VP2 cho bệnh Gumboro (gia cầm) , vắc-xin tiểu đơn vị tái tổ hợp E2 cho bệnh dịch tả lợn cổ điển , vắc-xin protein tái tổ hợp ApxII, TbpB, CysL, OmlA(1) và OmlA(2) cho Actinobacillus pleuropneumoniae , vắc-xin protein HN tái tổ hợp trong dòng tế bào thực vật cho vi rút bệnh Newcastle . Vắc-xin polysaccharide bao gồm vắc-xin phế cầu polysaccharide (người) và vắc-xin viêm màng não (người) . Vắc-xin liên hợp bao gồm vắc-xin Haemophilus influenzae type b liên hợp (người) , vắc-xin phế cầu liên hợp (người) và vắc-xin viêm màng não liên hợp (người) . Các hạt giống virus (VLPs) bao gồm một số vắc-xin viêm gan B , vắc-xin papillomavirus ở người (HPV) và các vắc-xin dựa trên VLP thử nghiệm chống lại sốt thung lũng Rift và bệnh lở mồm long móng . Ưu điểm là cải thiện phản ứng miễn dịch, giảm tác dụng phụ và tăng cường bảo vệ chống lại các bệnh mục tiêu . VLPs không thể nhân lên trong động vật nhận . Vắc-xin DNA có thể tạo ra miễn dịch ngay cả khi có nồng độ kháng thể mẹ cao . Nhược điểm là vắc-xin tiểu đơn vị có thể thiếu các mẫu phân tử liên quan đến mầm bệnh (PAMP) và do đó cần chất bổ trợ . Có sự khác biệt đáng kể về khả năng sinh miễn dịch và tần suất tiêm nhắc lại (vắc-xin tái tổ hợp) . Việc tinh chế vật lý các kháng nguyên cụ thể có thể tốn kém .
Vắc-xin giải độc tố:
Vắc-xin giải độc tố: Loại vắc-xin này được làm từ các độc tố đã bất hoạt do vi sinh vật tạo ra, tạo ra phản ứng miễn dịch nhắm vào độc tố thay vì toàn bộ vi sinh vật . Ví dụ bao gồm vắc-xin giải độc tố uốn ván , vắc-xin giải độc tố Clostridium perfringens loại C và D và vắc-xin giải độc tố bạch hầu (người) .
Vắc-xin vector virus:
Vắc-xin vector virus: Loại vắc-xin này sử dụng một loại vi rút vô hại (vector) để đưa vật liệu di truyền mã hóa kháng nguyên từ một vi sinh vật gây bệnh vào tế bào của vật chủ, kích thích phản ứng miễn dịch . Ví dụ bao gồm vắc-xin vi rút đậu mùa chim hoàng yến vector cho bệnh Carre ở chó , vắc-xin vi rút đậu mùa chim hoàng yến vector cho bệnh bạch cầu ở mèo , vắc-xin vi rút đậu mùa chim hoàng yến vector cho bệnh dại (cho động vật hoang dã và mèo) , vắc-xin bệnh dại vector tái tổ hợp vaccinia để tiêm chủng đường miệng cho động vật hoang dã , vắc-xin vi rút sốt Tây sông Nile và cúm ở ngựa (sử dụng đậu mùa chim hoàng yến hoặc các vector khác) , vắc-xin vi rút cúm gia cầm (vector) , vắc-xin vi rút bệnh Newcastle (vector) , vắc-xin vi rút bệnh Gumboro (vector) và vắc-xin vi rút bệnh Marek (vector) .
Vắc-xin DNA:
Vắc-xin DNA: Loại vắc-xin này liên quan đến việc tiêm DNA mã hóa cho các kháng nguyên cụ thể vào tế bào của động vật, sau đó tế bào sẽ sản xuất kháng nguyên và kích thích phản ứng miễn dịch . Ví dụ bao gồm vắc-xin vi rút sốt Tây sông Nile cho ngựa , vắc-xin thử nghiệm chống lại vi rút cúm gia cầm, vi rút viêm màng não mạch lạc bào, vi rút bệnh dại, vi rút parvovirus ở chó, vi rút tiêu chảy do vi rút ở bò, vi rút suy giảm miễn dịch ở mèo, vi rút bệnh bạch cầu ở mèo, vi rút herpes ở lợn, vi rút gây bệnh lở mồm long móng, vi rút herpes ở bò loại 1 và vi rút bệnh Newcastle , cũng như vắc-xin chống lại bệnh Brucella, bệnh lao, viêm vú, bệnh than, bệnh Johne, bệnh leptospirosis, viêm phổi phế quản, bệnh colibacillosis, bệnh chlamydia, bệnh bạch cầu ở bò, bệnh viêm mũi khí quản truyền nhiễm ở bò, bệnh dịch tả lợn, bệnh giả dại, nhiễm trùng parvovirus (ở chó), bệnh cúm ngựa, bệnh herpes ở ngựa, bệnh cúm gia cầm, bệnh Newcastle, bệnh viêm phế quản truyền nhiễm, bệnh Gumboro, bệnh thiếu máu truyền nhiễm ở gà, bệnh anaplasmosis, bệnh cryptosporidiosis, bệnh sán máng, bệnh babesiosis và bệnh cầu trùng (thử nghiệm) .
Phòng ngừa Bệnh ở Các Loài Động vật Khác nhau
Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) đóng một vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa nhiều loại bệnh ở các loài động vật khác nhau.
Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) vaccine cho chó
Chó: Vắc-xin cho chó được phân loại là cơ bản và không cơ bản . Vắc-xin cơ bản được khuyến nghị cho tất cả chó, bất kể lối sống, trừ khi có lý do y tế cụ thể không được Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh). Chúng bao gồm vắc-xin chống lại vi rút bệnh Carre ở chó, adenovirus loại 2 ở chó (viêm gan), parvovirus ở chó và vi rút dại . Một số khu vực có thể coi leptospira là cơ bản do tỷ lệ mắc bệnh ngày càng tăng . Vắc-xin không cơ bản được khuyến nghị cho một số chó dựa trên lối sống, vị trí địa lý và nguy cơ phơi nhiễm. Chúng bao gồm vắc-xin chống lại Bordetella bronchiseptica (bệnh ho cũi chó), Borrelia burgdorferi (bệnh Lyme) và vi rút cúm chó . Các loại khác bao gồm vắc-xin chống lại leptospirosis, vi rút parainfluenza ở chó, coronavirus, giardia, độc tố rắn chuông và vi rút herpes ở chó . Các bệnh được phòng ngừa bằng vắc-xin ở chó bao gồm bệnh dại (một bệnh do vi rút gây tử vong ảnh hưởng đến hệ thần kinh, có thể lây sang người) , bệnh Carre (một bệnh do vi rút rất dễ lây lan và thường gây tử vong ảnh hưởng đến hệ hô hấp, tiêu hóa và thần kinh) , parvovirus ở chó (một bệnh do vi rút rất dễ lây lan gây ra bệnh đường tiêu hóa nghiêm trọng, thường gây tử vong, đặc biệt ở chó con) , adenovirus ở chó (viêm gan truyền nhiễm ở chó, một bệnh do vi rút ảnh hưởng đến gan, hệ hô hấp và mắt) , parainfluenza ở chó (một bệnh hô hấp do vi rút, một thành phần của bệnh ho cũi chó) , leptospirosis (một bệnh do vi khuẩn lây truyền qua nước tiểu của động vật hoang dã, có thể gây tổn thương thận và gan, và có thể lây sang người) , Bordetella bronchiseptica (bệnh ho cũi chó, một bệnh nhiễm trùng đường hô hấp do vi khuẩn, rất dễ lây lan trong môi trường tiếp xúc gần) , bệnh Lyme (một bệnh do vi khuẩn lây truyền qua ve, có thể gây ra chứng què, sốt và các vấn đề về thận) và cúm chó (một bệnh hô hấp dễ lây lan do các vi rút cúm A đặc hiệu gây ra) .
Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) vaccine cho mèo
Mèo: Tương tự như chó, vắc-xin cho mèo cũng được phân loại là cơ bản và không cơ bản . Vắc-xin cơ bản được khuyến nghị cho tất cả mèo con và mèo trưởng thành và bao gồm vắc-xin chống lại vi rút giảm bạch cầu ở mèo, vi rút viêm mũi khí quản ở mèo (herpesvirus loại 1), vi rút calicivirus ở mèo và vi rút dại . Vi rút bệnh bạch cầu ở mèo (FeLV) được coi là cơ bản ở mèo con và mèo một tuổi . Vắc-xin không cơ bản được khuyến nghị cho mèo có nguy cơ phơi nhiễm các bệnh cụ thể và bao gồm vắc-xin chống lại Chlamydophila felis, Bordetella bronchiseptica và FeLV ở mèo trưởng thành . Vắc-xin chống lại vi rút suy giảm miễn dịch ở mèo (FIV) và vi rút viêm phúc mạc truyền nhiễm ở mèo (FIP) đôi khi được cân nhắc nhưng không được khuyến nghị rộng rãi . Các bệnh được phòng ngừa bằng vắc-xin ở mèo bao gồm bệnh giảm bạch cầu ở mèo (một bệnh do vi rút rất dễ lây lan và thường gây tử vong ảnh hưởng đến đường tiêu hóa, hệ thống miễn dịch và hệ thần kinh, đặc biệt ở mèo con) , vi rút herpes mèo loại 1 (một nguyên nhân phổ biến gây nhiễm trùng đường hô hấp trên ở mèo) , vi rút calicivirus ở mèo (một nguyên nhân phổ biến khác gây nhiễm trùng đường hô hấp trên ở mèo, cũng có thể gây bệnh ở miệng) , bệnh dại (một bệnh do vi rút gây tử vong ảnh hưởng đến hệ thần kinh, có thể lây sang người) , vi rút bệnh bạch cầu ở mèo (một bệnh nhiễm trùng do vi rút làm suy yếu hệ thống miễn dịch, dẫn đến tăng khả năng mắc bệnh nhiễm trùng và ung thư) , Chlamydophila felis (một bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn gây viêm kết mạc và các triệu chứng hô hấp trên) và Bordetella bronchiseptica (một bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn gây bệnh hô hấp, ít phổ biến hơn FHV hoặc FCV) .
Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) vaccine cho các gia súc khác
Gia súc: Có nhiều loại vắc-xin có sẵn cho gia súc, tùy thuộc vào loài và các bệnh cụ thể cần phòng ngừa . Ở bò, các vắc-xin phổ biến bao gồm vắc-xin chống lại bệnh viêm mũi khí quản truyền nhiễm ở bò (IBR), bệnh tiêu chảy do vi rút ở bò (BVDV) loại 1 và 2, vi rút hợp bào hô hấp ở bò (BRSV), parainfluenza (PI3), leptospirosis (Lepto 5 chiều), Campylobacter fetus (vibriosis) và các bệnh do Clostridium (ví dụ: bệnh chân đen, bệnh phù ác tính, bệnh tụ huyết trùng, uốn ván, ngộ độc thịt) . Ở cừu và dê, vắc-xin CD-T (chống lại Clostridium perfringens loại C và D và uốn ván) là rất quan trọng, cũng như vắc-xin chống lại bệnh viêm hạch bạch huyết (CL), bệnh viêm loét miệng truyền nhiễm (sore mouth, orf), các bệnh gây sảy thai (ví dụ: Chlamydia, Campylobacter) và bệnh dại . Ở lợn, vắc-xin thường được sử dụng để phòng ngừa bệnh parvovirus ở lợn, bệnh đóng dấu son, bệnh leptospirosis, bệnh viêm phổi địa phương (Mycoplasma hyopneumoniae), hội chứng còi cọc và suy đa hệ thống sau cai sữa do circovirus ở lợn (PCVAD), bệnh tiêu chảy ở lợn con do E. coli và các bệnh do Clostridium, bệnh viêm mũi teo và bệnh Glässer (Haemophilus parasuis) . Ở gia cầm, vắc-xin có sẵn để phòng ngừa bệnh Marek, bệnh Newcastle, bệnh viêm phế quản truyền nhiễm (IB), bệnh viêm túi Fabricius (IBD hoặc Gumboro), bệnh viêm thanh khí quản truyền nhiễm (ILT), bệnh đậu mùa ở gia cầm, bệnh viêm não tủy ở gà (AE), bệnh thiếu máu truyền nhiễm ở gà (CIA), bệnh tả gà, bệnh salmonellosis và bệnh reovirus (viêm gân bao hoạt dịch) . Ở ngựa, vắc-xin cơ bản bao gồm vắc-xin phòng bệnh uốn ván, viêm não tủy ngựa (miền Đông, miền Tây và Venezuela), bệnh dại và vi rút Tây sông Nile (WNV). Vắc-xin tùy chọn, dựa trên nguy cơ phơi nhiễm, bao gồm vắc-xin phòng bệnh herpesvirus ở ngựa loại 1 và 4 (viêm mũi họng), bệnh cúm, bệnh viêm hạch bạch huyết (strangles), bệnh ngộ độc thịt, bệnh sốt Potomac và bệnh viêm động mạch do vi rút ở ngựa (EVA) .
Lịch Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) Khuyến nghị
Lịch Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) khuyến nghị khác nhau tùy thuộc vào loài động vật, loại vắc-xin và các yếu tố rủi ro của từng cá thể.
Lịch Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) cho chó
Chó: Đối với chó con, lịch Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) thường bắt đầu từ 6-8 tuần tuổi và tiếp tục mỗi 2-4 tuần cho đến 16 tuần tuổi đối với các vắc-xin cơ bản (bệnh Carre, adenovirus, parvovirus, +/- parainfluenza) . Vắc-xin dại thường được tiêm từ 3 tháng tuổi trở lên . Vắc-xin leptospirosis và bệnh Lyme thường bắt đầu khoảng 12 tuần tuổi, với hai liều cách nhau 2-4 tuần . Vắc-xin ho cũi chó có thể được tiêm sớm nhất là 6-8 tuần (tiêm qua đường mũi thường được ưu tiên để bảo vệ sớm) . Vắc-xin cúm chó cần hai liều, cách nhau 2-4 tuần . Chó trưởng thành thường được tiêm nhắc lại các vắc-xin cơ bản sau 1 năm kể từ loạt tiêm ban đầu, sau đó thường là mỗi 3 năm . Tần suất tiêm nhắc lại vắc-xin dại phụ thuộc vào loại vắc-xin và quy định của địa phương (1 hoặc 3 năm) . Các vắc-xin không cơ bản thường được tiêm nhắc lại hàng năm, tùy thuộc vào các yếu tố rủi ro của chó .
Lịch Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) cho mèo
Mèo: Đối với mèo con, các vắc-xin cơ bản (giảm bạch cầu ở mèo, herpesvirus ở mèo, calicivirus ở mèo) thường bắt đầu khoảng 6 tuần tuổi và được tiêm mỗi 3-4 tuần cho đến 16 tuần tuổi . Vắc-xin dại thường được tiêm một liều duy nhất sớm nhất là 8 tuần tuổi . Vắc-xin FeLV (nếu được khuyến nghị) bắt đầu khoảng 8 tuần tuổi với một liều nhắc lại sau 3-4 tuần . Vắc-xin Chlamydophila felis và Bordetella bronchiseptica (nếu cần) cũng bao gồm một liều ban đầu khoảng 8-9 tuần tuổi, sau đó là một liều nhắc lại . Mèo trưởng thành thường được tiêm nhắc lại các vắc-xin cơ bản sau 1 năm kể từ loạt tiêm ban đầu, sau đó thường là mỗi 3 năm . Tần suất tiêm nhắc lại vắc-xin dại phụ thuộc vào loại vắc-xin và quy định của địa phương (1 hoặc 3 năm) . FeLV và các vắc-xin không cơ bản khác thường được tiêm nhắc lại hàng năm cho mèo có nguy cơ .
Lịch Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) cho gia súc khác
Gia súc: Lịch Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) cho gia súc rất khác nhau tùy thuộc vào loài, bệnh cụ thể, tuổi của động vật và hệ thống sản xuất (ví dụ: bò thịt so với bò sữa) . Ở bò, việc Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) thường diễn ra khi sinh, khi cai sữa, trước khi phối giống và hàng năm đối với con trưởng thành. Việc Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) cho mẹ là phổ biến để cung cấp khả năng miễn dịch thụ động cho bê . Ở cừu và dê, vắc-xin CDT là rất quan trọng, thường được tiêm cho cừu/dê con ở 6-8 tuần tuổi với một liều nhắc lại, và hàng năm cho con trưởng thành. Cừu/dê cái mang thai được Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) trước khi đẻ . Ở lợn, lịch Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) được điều chỉnh theo giai đoạn sản xuất (lợn giống, lợn con, lợn thịt) và các nguy cơ bệnh cụ thể trong trang trại . Việc Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) cho mẹ là quan trọng để bảo vệ lợn con. Ở gia cầm, việc Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) là phổ biến trong các hoạt động thương mại, thường được thực hiện tại trại ấp (tiêm vào trứng hoặc gà con một ngày tuổi) đối với các bệnh như Marek và Newcastle, có khả năng tiêm nhắc lại sau này cho các loài chim sống lâu hơn . Ở ngựa, các vắc-xin cơ bản (uốn ván, viêm não tủy, vi rút Tây sông Nile, bệnh dại) thường được tiêm hàng năm sau một loạt tiêm ban đầu khi còn là ngựa con/ngựa non. Các vắc-xin dựa trên nguy cơ (ví dụ: cúm, viêm mũi họng, viêm hạch bạch huyết) có thể được tiêm thường xuyên hơn, đặc biệt đối với ngựa có nguy cơ phơi nhiễm cao hơn .
Các phương pháp phòng ngừa bệnh khác trong thú y ngoài Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh)
Ngoài Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh), có nhiều phương pháp khác có thể được sử dụng để phòng ngừa bệnh ở động vật.
Vệ sinh: Duy trì các điều kiện vệ sinh tốt là rất quan trọng trong việc ngăn ngừa sự lây lan của bệnh. Điều này bao gồm việc giữ cho khu vực nuôi nhốt và cho ăn sạch sẽ, thực hiện các biện pháp vệ sinh thích hợp và thường xuyên làm sạch và khử trùng thiết bị và bề mặt .
An toàn sinh học: Thực hiện các biện pháp an toàn sinh học hiệu quả là rất quan trọng để ngăn chặn sự xâm nhập và lây lan của mầm bệnh vào trang trại hoặc cơ sở. Điều này có thể bao gồm việc kiểm dịch động vật mới, kiểm soát việc ra vào của khách, và xử lý chất thải đúng cách . Thực hành an toàn sinh học tốt giúp giảm thiểu nguy cơ bùng phát dịch bệnh và nhu cầu Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) rộng rãi .
Dinh dưỡng và Quản lý sức khỏe tổng thể: Cung cấp dinh dưỡng cân bằng và phù hợp hỗ trợ hệ thống miễn dịch mạnh mẽ, giúp động vật có khả năng chống lại nhiễm trùng tốt hơn . Quản lý mức độ căng thẳng ở động vật cũng có thể cải thiện chức năng miễn dịch của chúng . Kiểm tra thú y thường xuyên cho phép phát hiện và quản lý sớm các vấn đề sức khỏe, có thể ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng của hệ thống miễn dịch đối với vắc-xin hoặc nhiễm trùng .
Lợi ích và các tác dụng phụ tiềm ẩn của việc Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) cho động vật
Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) mang lại nhiều lợi ích đáng kể cho động vật. Chúng bảo vệ chống lại các bệnh gây tử vong , tăng cường hệ thống miễn dịch , có thể kéo dài tuổi thọ của vật nuôi và cải thiện chất lượng cuộc sống tổng thể của động vật . Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) giúp ngăn ngừa dịch bệnh bùng phát trong quần thể động vật (miễn dịch cộng đồng) , giảm nhu cầu sử dụng thuốc kháng sinh, từ đó chống lại tình trạng kháng kháng sinh . Trong chăn nuôi, Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) bảo vệ nguồn cung cấp thực phẩm toàn cầu bằng cách duy trì sức khỏe và năng suất của vật nuôi và có thể mang lại lợi ích kinh tế đáng kể thông qua giảm tỷ lệ tử vong, tăng năng suất và tiết kiệm chi phí điều trị .
Mặc dù Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) thường an toàn và hiệu quả, nhưng vẫn có thể xảy ra các tác dụng phụ tiềm ẩn. Hầu hết các tác dụng phụ đều nhẹ và kéo dài trong thời gian ngắn, thường bắt đầu trong vòng vài giờ sau khi Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) . Các tác dụng phụ nhẹ thường gặp bao gồm đau và sưng tại chỗ tiêm, mệt mỏi, sốt nhẹ và chán ăn . Các tác dụng phụ nghiêm trọng nhưng hiếm gặp có thể xảy ra, chẳng hạn như phản ứng dị ứng (quá mẫn) và ở mèo, sự phát triển của khối u ác tính tại chỗ tiêm (sarcoma) . Các phản ứng hiếm gặp khác được báo cáo bao gồm bệnh đa dây thần kinh sau Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) (tổn thương thần kinh) . Tuy nhiên, lợi ích của việc Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) vượt xa nguy cơ tác dụng phụ .
Vai trò của việc Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) trong thú y đối với sức khỏe cộng đồng
Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) trong thú y đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là trong việc ngăn ngừa các bệnh lây truyền từ động vật sang người (bệnh lây truyền từ động vật sang người) . Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) cho vật nuôi, chẳng hạn như chó và mèo, chống lại bệnh dại là rất quan trọng trong việc ngăn ngừa các trường hợp bệnh dại ở người . Leptospirosis là một ví dụ khác về bệnh lây truyền từ động vật sang người, trong đó việc Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) cho động vật bảo vệ cả động vật và người . Việc Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) cho động vật lấy thịt chống lại các mầm bệnh có thể gây ô nhiễm thực phẩm giúp giảm nguy cơ mắc các bệnh do thực phẩm gây ra ở người . Khoảng 75% các mầm bệnh mới ở người có nguồn gốc từ động vật, do đó vắc-xin thú y đóng vai trò then chốt trong việc hạn chế sự lây lan của các bệnh truyền nhiễm từ động vật sang người . Sức khỏe động vật và sức khỏe con người có mối liên hệ mật thiết với nhau, và Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) thú y đóng một vai trò quan trọng trong khái niệm “Một sức khỏe” . Ngăn ngừa bệnh ở động vật thông qua Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) không chỉ mang lại lợi ích cho động vật mà còn bảo vệ sức khỏe con người bằng cách giảm nguy cơ lây truyền các bệnh lây truyền từ động vật sang người . Các bác sĩ thú y và các quan chức y tế công cộng thú y đóng vai trò quan trọng trong việc sử dụng vắc-xin để bảo vệ cả sức khỏe động vật và con người .
Kết luận
Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) thú y là một nền tảng của y học thú y dự phòng, mang lại những lợi ích đáng kể cho sức khỏe, phúc lợi động vật và sức khỏe cộng đồng. Hiểu rõ các loại vắc-xin khác nhau, cơ chế hoạt động và các bệnh mà chúng phòng ngừa là điều cần thiết để sử dụng hiệu quả. Lịch Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) phù hợp, dựa trên loài, tuổi, lối sống và các yếu tố rủi ro, là rất quan trọng để bảo vệ tối ưu. Mặc dù thường an toàn, nhưng việc nhận thức được các tác dụng phụ tiềm ẩn là quan trọng để đưa ra quyết định sáng suốt. Việc tích hợp Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) với các chiến lược phòng ngừa khác như vệ sinh và an toàn sinh học sẽ tối đa hóa khả năng kiểm soát dịch bệnh. Tác động của Tiêm phòng (Chích ngừa bệnh) thú y đối với việc ngăn ngừa các bệnh lây truyền từ động vật sang người nhấn mạnh vai trò quan trọng của nó trong việc bảo vệ sức khỏe con người trong khuôn khổ “Một sức khỏe” rộng lớn hơn.









Nay thứ 7 mà vẫn phải đọc bài nhiều chữ quá nè trời 🥱
Mình nghe nói tiêm nhiều vắc-xin quá cũng không tốt cho hệ miễn dịch của các bé? Bài viết có thể nói rõ hơn về việc cân nhắc giữa lợi ích và rủi ro được không?